Loãng xương là bệnh xương chuyển hóa tiến triển làm giảm mật độ chất khoáng trong xương (khối lượng xương trên một đơn vị thể tích), kèm suy giảm cấu trúc xương. Xương yếu dẫn đến gãy xương với chấn thương nhỏ hoặc không rõ chấn thương, ở cột sống lưng, thắt lưng, cổ tay và khớp háng (gọi là gãy xương do loãng xương).
Chẩn đoán bằng phương pháp chụp hấp thụ tia x năng lượng kép (đo DXA) hoặc bằng chẩn đoán khẳng định gãy xương do loãng xương. Điều trị và dự phòng bao gồm việc thay đổi các yếu tố nguy cơ, bổ sung canxi và vitamin D, tập thể dục để tăng tối đa sức mạnh xương và cơ, cải thiện thăng bằng, và giảm thiểu nguy cơ ngã, và liệu pháp dùng thuốc để bảo vệ khối xương hoặc kích thích sự hình thành xương mới.
Chúng ta đều biết rằng,tập luyện TDTT thường xuyên với liều lượng hợp lý là biện pháp hữu hiệu phòng chống sự phát triển của bệnh loãng xương.Bệnh loãng xương thường hay gặp ở phụ nữ hơn,đặc biệt là giai đọan mãn kinh.Khi bị loãng xương ,xương mất nhiều chất khoáng chủ yếu là can xi,và xương trở nên giòn,một số chấn thương bình thường và có thể dẫn đến gẫy xương tay, xương đùi hoặc cột sống.
Nguyên nhân của loãng xương là do áp lực cơ học, bao gồm mang vác các đồ vật là cần thiết cho quá trình tạo xương. Do vậy bất động hoặc ít vận động kéo dài sẽ gây mất xương. Chỉ số khối cơ thể thấp là yếu tố nguy cơ làm giảm khối lượng xương.
Sự thiếu hụt canxi, phốt pho, magiê và vitamin D dẫn tới mất xương, cũng như nhiễm toan nội sinh. Hút thuốc lá và uống rượu cũng ảnh hưởng xấu đến khối lượng xương. Tiền sử gia đình có loãng xương, đặc biệt là gãy cổ xương đùi, cũng làm tăng nguy cơ. Những bệnh nhân đã bị gãy một xương do loãng xương có nguy cơ cao bị gãy các xương khác có biểu hiện lâm sàng và gãy lún thân đốt sống không triệu chứng.
Một số quần thể, bao gồm cả người da trắng và người châu Á, được cho là có nguy cơ mắc bệnh loãng xương cao hơn các nhóm khác. Tuy nhiên, những khác biệt nhóm đối tượng có mục đích này đang được đặt câu hỏi vì những khó khăn mới được hiểu trong việc sắp xếp các cá nhân thành các nhóm đối tượng.
Trong thể thao , loãng xương chủ yếu do: - Mất kinh, hiếm kinh trong thời gian dài; - Chế độ dinh dưỡng không cân đối thiếu can xi’ - Trạng thái tiền mãn kinh
Những VĐV nữ có chu kỳ kinh nguyệt hay bị rối loạn như: không có kinh trong 2 tháng liền…càng có nguy cơ cao bị loại chấn thương này.Giảm hàm lượng Estrogen có liên quan đến rối loạn kinh nguyệt có thể gây loãng xương.Xương trở nên mỏng và dễ bị gẫy xương “do mệt mỏi quá mức”. Trong số VĐV nữ hoàn toàn mất kinh 12 tháng liền và hơn thì tỷ lệ gẫy xương “do mệt mỏi quá mức” tăng gấp 2-3 lần. Loại chấn thương này có thể gặp bất cứ giai đoạn huấn luyện nào, nguyên nhân thường là tăng đột ngột cường độ hoặc tần số buổi tập
Giảm quá mức tỷ lệ mỡ trong cơ thể ( dưới 17 % trọng lượng cơ thể) và chế độ ăn kiêng có lượng ka lo thấp kết hợp với lượng can xi trong khẩu phần ăn không đủ là nguyên nhân của chứng mất kinh và loãng xương sớm ở nữ VĐV. Nếu không áp dụng các biện pháp ngăn chặn và chữa trị kịp thời thì những VĐV này có thể mất đến 20% khối lượng xương và kết quả là xương của họ yếu như xương của phụ nữ ở tuổi 50
Tập luyện TDTT có tác dụng tăng khối lượng xương nếu chương trình tập luyện hợp lý, chế độ ăn uống hợp lý phù hợp với môn thể thao, ăn đủ lượng can xi…Ngược lại nếu tập luyện quá căng thẳng có thể xảy ra gẫy xương do giảm khối lượng xương
Những trường hợp cần chú ý: Người con gái đến tuổi dậy thì, khi bắt đầu có kinh nguyệt thường băn khoăn lo lắng, vì vậy người mẹ cần giải thích cho con em mình biết rõ hiện tượng sinh lý bình thường và hướng dẫn cách rửa, cách đóng khố và cách làm vệ sinh kinh nguyệt.
Đến tuổi gần mãn kinh, khoảng 45 – 50 tuổi, người phụ nữ có thể thay đổi tính tình như hiện tượng bốc hoả, kinh nguyệt kéo dài, có khi mất hẳn vài ba tháng lại có. Đây là những rối loạn cơ năng do sự thay đổi nội tiết. Khi mãn kinh hẳn thì sẽ mất, nếu rối loạn kinh nguyệt kéo dài thì phải đi khám xem có bệnh lý gì không ?. Làm tốt công tác vệ sinh kinh nguyệt sẽ tránh cho phụ nữ mắc một số bệnh đường sinh dục như viêm âm hộ, âm đao, viêm cổ tử cung, viêm tắc vòi trứng và một số bệnh khác nữa.
Một số yếu tố cần chú ý nhằm giảm thiểu nguy cơ loãng xương: Thay đổi yếu tố nguy cơ; bổ sung canxi và vitamin D; Các thuốc chống hủy xương (ví dụ: bisphosphonate, liệu pháp thay thế hormon, điều biến chọn lọc thụ thể estrogen, thuốc ức chế hoạt hóa thụ thể của yếu tố nhân kappa-B ; Các chất đồng hóa (ví dụ, các hormone tuyến cận giáp (PTH) tương tự như teriparatide và abaloparatide); Romosozumab, một kháng thể đơn dòng chống lại sclerostin với cả tác dụng chống trượt và đồng hóa.
Mục tiêu điều trị loãng xương là bảo vệ khối lượng xương, ngăn ngừa gãy xương, giảm đau, và duy trì chức năng.
Thuốc có thể làm chậm tốc độ mất xương. Bổ sung đủ canxi và vitamin D và hoạt động thể chất đóng vai trò quan trọng để duy trì mật độ chất khoáng trong xương tối ưu. Điều chỉnh các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được.
Việc điều chỉnh các yếu tố nguy cơ nhằm mục đích giảm nguy cơ loãng xương và nguy cơ gãy xương. Các biện pháp bao gồm : Tập thể dục đeo tạ; Uống rượu vừa phải; Cai thuốc lá; biện pháp phòng ngừa ngã
Tập thể dục đeo tạ có thể giúp tăng mật độ khoáng của xương. Số lượng bài tập đeo tạ tối ưu không được thiết lập, nhưng nên tập trung bình 30 phút mỗi ngày. Nếu uống rượu, lượng uống không quá 1 ly mỗi ngày đối với phụ nữ và 2 ly mỗi ngày đối với nam giới.
Các bác sĩ lâm sàng nên thường xuyên hỏi về những lần té ngã gần đây và đánh giá nguy cơ té ngã. Nhiều bệnh nhân cao tuổi có nguy cơ ngã vì khả năng phối hợp và thăng bằng kém, thị lực yếu, yếu cơ, lú lẫn, và sử dụng các thuốc gây hạ huyết áp tư thế hoặc thay đổi cảm giác. Nếu cần thiết, các nhà trị liệu vật lý có thể đánh giá dáng đi và nguy cơ ngã của bệnh nhân, đồng thời giúp tạo ra các chương trình tập luyện tăng cường sức mạnh cốt lõi được cá nhân hóa an toàn để giúp tăng cường sự ổn định và giảm nguy cơ té ngã. Giáo dục bệnh nhân về nguy cơ té ngã và gãy xương, hướng dẫn cách thực hiện các hoạt động hàng ngày một cách an toàn và điều chỉnh môi trường gia đình sao cho an toàn cũng rất quan trọng để ngăn ngừa gãy xương.
Canxi và vitamin D :Tất cả nam giới và phụ nữ cần bổ sung ít nhất 1000 mg canxi nguyên tố mỗi ngày. Lượng nạp vào từ 1200 mg/ngày (bao gồm cả khẩu phần ăn) được khuyến cáo cho phụ nữ sau mãn kinh và đàn ông lớn tuổi và trong thời kỳ tăng nhu cầu, như dậy thì, mang thai và cho con bú. Canxi lý tưởng nên được hấp thụ từ các nguồn thực phẩm, sử dụng thực phẩm chức năng nếu chế độ ăn uống không đủ. Canxi bổ sung được sử dụng phổ biến nhất là canxi cacbonat hoặc canxi citrat. Canxi citrat được hấp thu tốt hơn ở những bệnh nhân bị giảm axit clohidric dạ dày, nhưng cả hai đều được hấp thụ tốt khi dùng chung với bữa ăn. Bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế axit dạ dày (ví dụ, thuốc ức chế bơm proton, thuốc chẹn H2) hoặc những người đã phẫu thuật nối tắt dạ dày nên dùng canxi citrate để tối đa hóa sự hấp thu. Canxi thường cần được uống liều 500 đến 600 mg/lần x 2 lần/ngày.
Nên bổ sung vitamin D từ 600 đến 800 đơn vị mỗi ngày. Bệnh nhân bị thiếu vitamin D có thể cần liều cao hơn. Vitamin D bổ sung thường được dùng dưới dạng cholecalciferol, dạng vitamin D tự nhiên, mặc dù ergocalciferol, dạng tổng hợp có nguồn gốc từ thực vật, cũng được chấp nhận. Nồng độ 25-OH vitamin D3 nên được bảo đảm ≥ 30 ng/mL.
Thuốc chống hủy xương : Bisphosphonate là liệu pháp thuốc bậc một. Bằng cách ức chế sự hủy xương, bisphosphonate bảo vệ khối lượng xương và có thể làm giảm tỷ lệ gãy xương cột sống và xương đùi lên đến 50%. Chu chuyển xương giảm sau 3 tháng điều trị bisphosphonate và giảm nguy cơ gãy xương rõ rệt sớm sau 1 năm sau khi bắt đầu điều trị.
Các bisphosphonate cần được uống trước ăn sáng, uống với một cốc nước đầy (8 oz, 250 mL), và bệnh nhân phải giữ tư thế thẳng trong ít nhất 30 phút (60 phút đối với ibandronate) và không ăn uống bất cứ thứ gì khác trong thời gian này. Những thuốc này an toàn khi dùng ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine > 35 mL/phút. Uống bisphosphonate có thể gây kích ứng thực quản. Các bệnh lý thực quản làm giảm nhu động và các triệu chứng của đường tiêu hóa trên có là chống chỉ định tương đối dùng bisphosphonate đường uống. Bisphosphonate tĩnh mạch được chỉ định nếu một bệnh nhân không thể dung nạp được hoặc không tuân thủ bisphosphonate đường uống.
Thanh Hiền